December 5, 2025

Tái thiết Di sản Kiến trúc dựa vào nguồn “DNA Di sản” công trình: Ðiện Chiêu Kính – Hoàng Thành Huế

Tóm tắt

Bài viết nhằm báo cáo kết quả nghiên cứu phục hồi bản vẽ thiết kế kiến trúc nhằm phục vụ cho dự án tái thiết công trình kiến trúc di sản Điện Chiêu Kính của khu vực Thái Miếu – Hoàng Thành Huế. Công trình này được xây dựng vào năm 1804 dưới thời Gia Long và bị sụp đổ năm 1947 do chiến tranh. Hiện nay, phần mái và hệ khung gỗ của công trình này đã bị mất, chỉ còn lại phế tích nền móng. Dựa trên hướng tiếp cận nghiên cứu đa ngành gồm: nghiên cứu tư liệu lịch sử, khảo cổ học, phân tích tỉ lệ kiến trúc bằng phương pháp đối sánh đồng đại và đồng dạng; đồng thời tham khảo hình thức kiến trúc của công trình hiện còn là Điện Long Đức… Bài nghiên cứu đề xuất phương án phục hồi lại bản vẽ thiết kế nguyên bản của công trình Chiêu Kính Điện. Đây là sự đúc kết bước đầu phương pháp luận nghiên cứu tái thiết những di sản kiến trúc bị mất, tạo nguồn dữ liệu thiết kế kiến trúc cho dự án tái thiết công trình Điện Chiêu Kính. Kết quả của hoạt động nghiên cứu này đã cung cấp sự hướng dẫn hữu ích cho công tác trùng tu và tái thiết di sản kiến trúc ở Việt Nam nói chung và ở Huế nói riêng, góp phần trùng tu phục hồi tổng thể khu vực Thái Miếu – Hoàng Thành Huế đúng với nguyên bản qui hoạch kiến trúc giai đoạn đầu của triều Nguyễn, đảm bảo giá trị chân xác (Authentic Values) trong hoạt động tái thiết di sản theo tinh thần công ước Nara 1994.

Từ khóa: DNA Di sản, Tái thiết di sản kiến trúc, Điện Chiêu Kính, Thái Miếu, Triều Nguyễn, Việt Nam

Abstract:

This article aims to report the research results of the restorated drawings of architectural design to serve the reconstruction project of the Chieu Kinh Dien Temple in the Thai Mieu area – Hue Imperial City. This building was built in 1804 during Gia Long period and was destroyed in 1947 due to the war. Currently, the roofs and wooden frame of the building have been lost, with only the foundation ruins remaining. Based on a multidisciplinary research approach-including the study of historical documents, archaeology, and analysis of architectural proportions using contemporary and morphological comparison methods-and by referencing the existing architectural form of the Long Duc Dien Temple, this study proposes a restorated drawings of the original architectural design of the Chieu Kinh Dien Temple. This is an initial synthesis of a methodology for reconstruction of the lost architectural heritage, creating an important architectural design database for the reconstruction project of the Temple. The results of this research have provided valuable guidance for the restoration and reconstruction of architectural heritage in Vietnam in general and in Huế in particular. It contributes to the overall restoration project of the Thai Mieu area in accordance with the original architectural planning of the early Nguyen Dynasty, ensuring Authentic Values in heritage reconstruction efforts, following the guildance of the 1994 Nara convention.

Keywords: Heritage DNA, Reconstruction of Architectural Heritage, Dien Chieu Kinh Temple, Thai Mieu, Nguyen Dynasty, Vietnam

1. Giới thiệu chung

Kiến trúc Cung điện Việt Nam phần lớn được làm bằng những vật liệu hữu cơ tự nhiên, như: Gỗ (làm hệ khung chịu lực), gạch hoặc đá (làm nền móng, tường bao), ngói nung có tráng men hoặc không tráng men (dùng để lợp mái) và những vật liệu phụ khác. Chiến tranh, thiên tai và điều kiện khí hậu khắc nghiệt đã làm mất mát một lượng lớn công trình di sản kiến trúc này. Ở miền Bắc, khu di sản Hoàng Thành Thăng Long, kinh đô của các triều Lý (1009-1225), Trần (1225-1400) và Lê (1428-1789) đã bị sụp đổ hoàn toàn, chỉ còn lại phế tích nền móng kiến trúc. Ở miền Trung và miền Nam, đại diện là quần thể Di tích Cố đô Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), cũng đã mất mát đến 70% so với thời kỳ hoàng kim của nó.

Theo các tài liệu thẩm định di sản văn hóa của tổ chức UNESCO và ICOMOS, di sản bao gồm 3 nhóm giá trị cơ bản là: Giá trị Tình cảm (Emotional Values); Giá trị Văn hóa (Cultural Values) và Giá trị Sử dụng (Usage Values). Những giá trị này được hình thành thông qua lịch sử của mỗi dân tộc. Sự mất mát của di sản kiến trúc chính là sự mất mát một phần hoặc toàn bộ những giá trị đó. Vậy nên, việc nghiên cứu, bảo tồn và tái thiết những công di sản kiến trúc là rất quan trọng đối với hiện tại cũng như tương lai của mỗi dân tộc, giúp phục hồi ký ức lịch sử-văn hóa, bồi đắp và tăng cường giáo dục truyền thống, xây dựng quỹ “DNA Di sản Kiến trúc” [1] đồng thời tạo động lực phát triển kinh tế xã hội thông qua du lịch.

Với sự ra đời của Công ước Nara về tính chân xác (Nara Documents on Authenticity) [2], đồng thời với sự kiện Hoàng Cung Nara (Heijoukyo) của Nhật Bản được tái thiết thành công, và được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới năm 1996, đã tạo động lực mạnh mẽ cho các quốc gia đồng văn châu Á, trong đó có Việt Nam, bắt đầu tái thiết những di sản kiến trúc của mình. Theo đó, các công trình như: Điện Kiến Trung (建中殿) ở Hoàng Thành Huế, Lăng Thiên Thọ Hữu (天授右陵) ở lăng Gia Long đã được tái thiết. Đặc biệt là Dự án tái thiết Điện Cần Chánh (勤政殿) ở Tử Cấm Thành Huế, dựa trên luận án tiến sĩ của Lê Vĩnh An [3] và sự hỗ trợ về công nghệ nghiên cứu của ĐH Waseda, Nhật Bản.

Trong mạch hoạt động tái thiết di sản đó, công trình Điện Chiêu Kính đã được lựa chọn để tái thiết thí điểm với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của ĐH Monostukuri (Nhật Bản) và sự hợp tác nghiên cứu thực nghiệm của đội ngũ chuyên gia bảo tồn và giảng viên ĐH tại Việt Nam. Công trình đã được tái thiết thành công và đưa vào khai thác sử dụng, góp phần đẩy lùi không gian hoang phế trong khu vực Thái Miếu. Đây là một mẫu hình hợp tác quốc tế hiệu quả trong lĩnh vực tái thiết di sản kiến trúc theo tinh thần Công ước Nara, với đặc trưng là sử dụng vật liệu và kỹ thuật xây dựng truyền thống, sử dụng đội ngũ thợ mộc và thợ nề ngõa truyền thống lành nghề ở Huế để tái thiết di sản kiến trúc, đảm bảo tính chân xác trong công tác bảo tồn tái thiết di sản văn hóa theo tinh thần các công ước quốc tế.

2. Về công trình Điện Chiêu Kính

Điện Chiêu Kính (昭敬殿) tọa lạc ở góc Đông Nam thuộc khu vực Thái Tổ Miếu, bên trong Hoàng Thành Huế (Hình 1), được xây dựng vào năm Gia Long thứ 3 (1804) với tên gọi là Tả Tế Sở (左祭所), năm Minh Mạng thứ 13 (1833) được tôn tạo và đổi tên là Điện Chiêu Kính, dùng làm nơi thiết soạn lễ vật trong ngày kỵ giỗ các Chúa: Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635); Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648); Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687); Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691) và các Phi Tần. Công trình này đã bị sụp đổ vào năm 1947 vào những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1954).

Hình 1: Vị trí tọa lạc của Điện Chiêu Kính và Điện Long Đức thuộc khu vực Thái Miếu (Hoàng Thành Huế)

Chiêu Kính Điện là công trình kiến trúc Phương Gia, mặt bằng hình vuông có diện tích 194 m2, hệ khung chịu lực bằng gỗ, hệ mái 2 tầng gồm 8 mái, lợp ngói Hoàng lưu ly (ngói tráng men vàng), mặt đứng chính hướng Nam, tọa lạc bên trái phía trước của Thái Tổ Miếu (kiến trúc chính của khu vực Thái Miếu), là một trong những công trình phối thuộc của kiến trúc chính này. Tọa lạc phía sau Điện Chiêu Kính là Điện Long Đức (隆德殿), hai công trình này hoàn toàn tương tự nhau, mang đậm kỹ thuật kiến trúc gỗ truyền thống miền Trung, ví dụ như các kỹ thuật: Thu thách cột, gia tăng chiều cao cột để tạo độ cong của mái, kỹ thuật mặt nền lõm…

Điều ngạc nhiên thú vị là những kỹ thuật kiến trúc này giống với một dạng kỹ thuật kiến trúc gỗ truyền thống của Nhật bản, có nguồn gốc sâu xa từ tập quán cư trú của cư dân vùng Đông Á thời cổ đại. Dựa trên kết quả khảo sát đo đạc thực tế, kết hợp nghiên cứu tư liệu lịch sử và kết quả khảo cổ học nền móng kiến trúc, có thể đưa ra giả thuyết rằng: Cấu trúc phía trên của 2 công trình Điện Chiêu Kính Điện và Điện Long Đức là tương tự nhau. Do đó, công tác nghiên cứu phục hồi bản vẽ thiết kế của công trình Điện Chiêu Kính không chỉ nhằm cung cấp tư liệu cho dự án tái thiết mà còn nhắm tới việc phục dựng lại một phương pháp thiết kế kiến trúc giai đoạn đầu của triều Nguyễn.

3. Kết quả nghiên cứu

3.1 Lịch sử xây dựng và tu bổ

Năm 1804 và thời Gia Long (1802-1820), sau khi khởi dựng Thái Miếu, triều đình Nguyễn đã cho xây dựng thêm một loạt công trình trong khu vực này như: Năm Gia Long thứ 3 (1805) dựng cổng Diên Hy bên trái trên có lầu chuông, cổng Quang Hy bên phải trên có lầu trống [4]; năm Gia Long thứ 11(1812) dựng cổng Nghi Môn và các tòa nhà bếp ở hai bên Thái Miếu [5]; năm Gia Long thứ 12 (1813) dựng gác Mục Thanh và nhà thờ phụ ở hai bên trái phải dùng làm nơi phối thờ các bậc thân huân công thần hồi khai quốc [6]. Ngoài những lần xây dựng đó, dưới thời Gia Long còn có những đợt tu sửa nhỏ vào các năm 1807, 1811, 1813, 1818 [7].

Thời Minh Mạng (1820-1841), Thái Miếu được trùng tu và xây dựng thêm khá nhiều công trình. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) đổi tên Tả Phương Đường thành Điện Long Đức, Hữu Phương Đường thành Thổ Công Từ, Tả Tế Sở thành Điện Chiêu Kính và Hữu Tế Sở thành Điện Mục Tư. Như vậy, hai cặp đồng dạng gồm bốn công trình này đã được xây dựng cùng thời vào năm Gia Long thứ 3 (1804), đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832) các công trình này được chỉnh trang tu bổ và đổi tên. Đến thời Thiệu Trị và Thành Thái, cùng với việc tu sửa Thái Miếu, các công trình này cũng đã được chỉnh trang tu sửa lại.

3.2 Vị trí tọa lạc của công trình

Thái Miếu nằm ở phía trái (góc Đông Nam), đối xứng Thế Miếu nằm ở phía phải (góc Tây Nam) qua trục trung tâm của Hoàng Thành Huế, theo nguyên tắc “Tả Tổ Hữu Xã” (phía trái thờ Tổ tiên, phía phải thờ Xã tắc) của phương pháp quy hoạch kinh đô truyền thống phương Đông. Điện Chiêu Kính là một trong những công trình phối thuộc của cụm kiến trúc Thái Tổ Miếu, có quan về hệ trục với công trình Điện Long Đức và quan hệ đối xứng với công trình Điện Mục Tư qua trục chính của Thái Tổ Miếu theo nguyên tắc “Tả Chiêu Hữu Mục” [8], [9], [10].

Căn cứ trên kết quả trắc đạc bằng máy toàn đạc quang tuyến khu vực Thái Miếu (Hình 2), dùng phương pháp chia lưới trượng, theo đó 1 trượng = 10 xích = 4.240m (đơn vị xích dưới đây được gọi là thước ta) áp dụng để phân tích mối tương quan về vị trí giữa các công trình hiện còn và các phế tích nền móng, kết quả cho thấy:

  • Từ trục trượng trung tâm (khoảng không gian ở giữa) của khu vực đi qua gian giữa Thái Tổ Miếu, thẳng hướng Nam thì trùng khít với gian giữa của Thái Miếu Môn, thẳng hướng Bắc thì trùng với gian giữa của Triệu Tổ Miếu. Như vậy, có thể nhận định: Đây là trục không gian chủ đạo làm cơ sở để qui hoạch vị trí của các công trình còn lại;
  • Từ trục chủ này phát triển 8 trượng ra hai bên trái, phải thì trùng khớp với mép nền hai bên của Thái Tổ Miếu. Như vậy, qui mô bề ngang của nền Thái Tổ Miếu là 17 trượng;
  • Từ trượng thứ 8 này phát triển 2 trượng ra hai bên trái, phải sẽ là mép nền của các cặp công trình đồng dạng đối xứng nhau qua trục trung tâm của Thái Tổ Miếu là Điện Long Đức và Thổ Công Từ; Điện Chiêu Kính và Điện Mục Tư. Nền của các cặp công trình đồng dạng này được ấn định trong khoảng 3 trượng vuông, mỗi cạnh 4.240m x 3 = 12.720m, kích thước này tương thích với kích thước tổng gian của Điện Long Đức (12.567m) và Điện Chiêu Kính (12.639m) theo kết quả đo đạc thực tế;
  • Từ mép nền phía trước của Thái Tổ Miếu phát triển 4 trượng về phía trước sẽ trùng với mép nền phía sau của Điện Chiêu Kính và Điện Mục Tư, từ vị trí này phát triển 6 trượng về phía sau sẽ là mép nền phía trước của Điện Long Đức và Thổ Công Từ.
Hình 2: Mối quan hệ vị trí của các công trình trong khu vực Thế Miếu

Trên thực tế, vị trí của các công trình có xê dịch đôi chút so với kết quả phân tích, tuy nhiên có thể hiểu rằng nguyên nhân có thể là do sai số bởi kỹ thuật thi công truyền thống bằng phương pháp giác móng thủ công, hiện tượng trôi nền do lũ lụt và quá trình bồi đắp tự nhiên.

3.3 Tình trạng kỹ thuật của nền móng

Nền móng của Điện Chiêu Kính hiện còn được cấu thành bởi các chân đá tán, đá bậc cấp (ở mặt trước), đá vỉa nền, móng gạch bó vỉa và một vài mảng gạch Bát Tràng lát nền còn sót lại ở góc Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam (loại gạch có kích thước 0,30m x 0,30m dày 0,06m).

Công trình có mặt bằng hình vuông theo thức “Phương Gia” (方家), kích thước tổng nền đo được mỗi cạnh là 13,912m, mặt Nam của nền móng có 3 bậc cấp lên xuống và dấu tích móng của sân phía trước, ba mặt Đông-Tây-Bắc hoàn toàn không có bậc cấp và sân. Các hàng đá tán dọc vỉa móng có hình chữ nhật (kích thước 0,35m x 0,78m dày 0,27m) được đặt trùng khít với hàng gạch bó vỉa nền. Các chân đá tán ở trong nền công trình có hình vuông mỗi cạnh dao động từ 0,35m đến 0,40m. Hầu hết gạch lát nền đã bị bóc dỡ, số còn lại không còn nguyên vẹn, xung quanh nền móng tìm thấy một vài mẫu ngói vỡ, có thể là phế tích ngói lợp của công trình này còn sót lại sau khi công trình bị sụp đổ. Mặt nền hiện tại là lớp đất Letairte dày 0,15m, bên dưới là lớp cát gia cố nền (Hình 3).

Hình 3: Tình trạng kỹ thuật của nền móng và vị trí các hố khảo cổ

3.4 Đá tán và lưới cột

Tổng số chân đá tán còn lại là 36 viên được phân thành 02 loại: Loại 1 có hình chữ nhật (kích thước 0,35m x 0,78m dày 0,27m) được đặt trùng khít với hàng gạch bó vỉa, vừa đảm nhiệm chức năng đỡ các cột, vừa tham gia kết cấu móng nền; loại 2 có hình vuông (kích thước 0,36m x 0,36m dày 0,27m). Trên bề mặt những viên đá tán này có dấu tích đường kính cột đo được 0,27m – 0,28m, một vài viên đá tán ở vị trí góc quyết cũng có dấu tích đường kính cột, đo được 0,240m (Hình 4).

Các chân đá tán này được bố trí theo hàng, từ Đông sang Tây 6 hàng và từ Nam qua Bắc 6 hàng, tạo nên mặt bằng lưới hình vuông mỗi cạnh dài 12,639m. Kích thước trung bình của gian giữa là 3,296m, gian hai bên là 2,782m và gian chái là 2,020m. Trên thực tế, các chân đá tán ít nhiều đã lệch so với trục nguyên thủy, việc xác định kích thước gian (thể hiện qua lưới cột) dựa vào giá trị trung bình của khoảng cách tim-tim các viên đá tán theo từng hàng.

Hình 4: Vị trí đá tán, kích thước lưới cột và dấu vết đường kính cột

Như vậy, dựa trên mặt bằng lưới cột có thể kết luận: Cấu trúc hệ khung gỗ của Điện Chiêu Kính gồm 36 cây cột, mỗi bộ vì có 6 hàng cột, trong đó có 4 cột hàng nhất, 12 cột hàng nhì và 20 cột hàng ba. Dấu tích đường kính cột hiện hữu trên bề mặt đá tán lớn và đá tán nhỏ cho phép xác định đường kính cột hàng nhất là 0,28m, cột hàng nhì là 0,27m và cột hàng ba là 0,24m. Đây là cơ sở quan trọng cho việc phục hồi các cây cột và hệ khung gỗ của công trình này.

Hình 5: Hiện trạng nền móng và tỉ lệ bước gian của các công trình đồng dạng

3.5 Phân tích tỉ lệ kích thước nền và gian

Điện Chiêu Kính có kích thước gian giữa (A) = 3.296mm = 7,77 thước ta, gian bên (B) = 2.782mm = 6,56 thước ta, gian chái (C) = 2.020mm = 4,76 thước ta. Tỉ lệ A ÷ B ÷ C lần lượt là 1 ÷ 0.84 ÷ 0.60; Kích thước tổng gian (D) = 12.639mm =29,83 thước ta, kích thước nền (E) = 13.912 =32,83 thước ta, tỉ lệ (D) ÷ (E) là 1 ÷ 1.1;

Điện Mục Tư (A) = 3.278mm = 7,73 thước ta, (B) = 2.750mm = 6,48 thước ta, (C) = 1.952mm = 4,6 thước ta. Tỉ lệ A ÷ B ÷ C lần lượt là 1 ÷ 0.84 ÷ 0.60. (D) = 12.682mm = 29,91 thước ta, (E) = 13.854 = 32,67 thước ta, tỉ lệ (D) ÷ (E) là 1 ÷ 1.1;

Điện Long Đức (A) = 3.264mm = 7,69 thước ta, (B) = 2.735mm = 6,45 thước ta, (C) = 1.950mm = 4,6 thước ta. Tỉ lệ A ÷ B ÷ C lần lượt là 1 ÷ 0.84 ÷ 0.60. (D) = 12.567mm = 29,64 thước ta, (E) = 13.763mm = 32,46 thước ta, tỉ lệ (D) ÷ (E) là: 1 ÷1.1 (Hình 5).

Như vậy, khi dùng phương pháp qui đồng mẫu số với mẫu số chung là (A) và (D) thì cả ba công trình Điện Chiêu Kính, Mục Tư và Long Đức đều có tỉ lệ bước gian và tổng nền giống nhau: A ÷ B ÷ C tương ứng với 1 ÷ 0.84 ÷ 0.60; (D) ÷ (E) tương ứng với 1 ÷ 1.1. Đây là cơ sở quan trọng cho việc phục hồi bản vẽ thiết kế mặt bằng kiến trúc của Điện Chiêu Kính.

3.6 Hình thức mái và mặt đứng công trình

Một thông tin quan trọng được sử liệu nhắc đến là: “… Bên Tây cùng đối diện với Chiêu Kính Điện là Mục Tư Điện, mái chồng, lợp ngói lưu ly vàng, hướng Nam. Phía Bắc Mục Tư Điện có nhà vuông, mái chồng lợp ngói âm dương làm chỗ thờ thổ công …” [11]. Theo đó, công trình Điện Long Đức, Điện Chiêu Kính và Điện Mục Tư đều quay về hướng Nam, hình thức mái chồng (hai lớp mái), và đều được lợp bằng ngói Hoàng lưu ly (ngói nung tráng men vàng).

Như vậy, tuy là những công trình đồng đại (cùng năm xây dựng), đồng dạng (cùng hình thức kiến trúc), đồng thức (cùng tỉ lệ kiến trúc), và đồng đẳng (cùng là những công trình phối thuộc của Thái Tổ Miếu trong cụm kiến trúc Thái Miếu), nhưng Thổ Công Từ được qui định có đẳng cấp thấp hơn nên chỉ được lợp ngói Âm-Dương thay vì lợp ngói Hoàng lưu ly như các công trình khác. Đây là dấu hiệu phân cấp công trình thường gặp trong kiến trúc cung điện Nguyễn.

3.7 Phân tích tỉ lệ công trình đồng dạng và đồng đại: Điện Long Đức

3.7.1 Kích thước khảo sát đo đạc

Như đã đề cập ở phần trên, các kích thước nhịp gian (thể hiện qua khoảng cách tim-tim của đá tán) trong các mặt bằng công trình hiện còn và mối quan hệ tỷ lệ giữa chúng đã được trình bày cụ thể. Trong số các công trình đó, chỉ có kết cấu gỗ của Điện Long Đức là vẫn còn tồn tại, do đó các kích thước mặt bằng của công trình này được xem là ổn định và đáng tin cậy.

Để làm cơ sở cho việc đề xuất phục hồi các bản vẽ thiết kế kiến trúc của hệ khung gỗ Điện Chiêu Kính, phần dưới đây sẽ trình bày kết quả phân tích mối quan hệ tỷ lệ giữa kích thước mặt bằng và chiều cao của các cấu kiện gỗ chính của Điện Long Đức thông qua mặt cắt dọc và cắt ngang. Các phép đo được thực hiện tại trục 3 (theo phương dọc) và trục C (theo phương ngang), các vị trí đo được kéo dài từ mặt trên của đá tán lên đến đỉnh của các cây cột, dạ xà dưới của cột hàng nhì (thể hiện chiều cao mái hạ); dạ Xuyên (xà dọc), dạ Trến (quá giang) và dạ Đòn Đông (xà nóc). Kích thước khảo sát này được lấy trung bình và được trình bày trong các bản vẽ phân tích mặt cắt của Điện Long Đức dưới đây (Hình 6 và Hình 7).

Hình 6: Mặt cắt dọc (Trục 3) của Điện Long Đức
Hình 7: Mặt cắt ngang (Trục C) của Điện Long Đức

Kết quả đo đạc và phân tích cho thấy: Chiều cao dạ Đòn Đông là 6.322 mm (= 14,9 thước ta), chiều cao cột hàng nhất là 5.539 mm (= 13,0 thước ta), cột hàng nhì là 3.981 mm (= 9,4 thước ta), và cột hàng ba là 2.611 mm (= 6,2 thước ta); chiều cao dạ xà dưới của cột hàng nhì là 3.399 mm (= 8,0 thước ta), chiều cao dạ Xuyên là 4.374 mm (= 10,3 thước ta), và chiều cao dạ Trến là 4.673 mm (= 11,0 thước ta).

3.7.2 Phân tích tỉ lệ kiến trúc của mặt cắt dọc và mặt cắt ngang

Những câu hỏi được đặt ra là: Chiều cao của các cây cột được xác định dựa trên cơ sở nào? Và, có hay không có mối quan hệ giữa kích thước nhịp gian của mặt bằng công trình với chiều cao của các cấu kiện gỗ? Nếu có, nó như thế nào?

Để giải đáp các câu hỏi này, chúng tôi tiến hành phân tích tỷ lệ bộ vì kèo tại vị trí Trục 3 của mặt cắt dọc. Kết quả phân tích được trình bày trong Hình 8 dưới đây:

Hình 8: Tỉ lệ cấu trúc mặt cắt đọc (Trục 3) của Điện Long Đức
  • Chiều cao cột hàng nhất gấp đôi kích thước nhịp gian bên (B): bj = 2bg = 2 × 2.723 mm = 5.446 mm (sai số – 24 mm);
  • Chiều cao cột hàng nhì bằng kích thước gian bên (B) nhân √2: go = √2bg = 2.723 mm × 1.414 = 3.850 mm (sai số – 44 mm);
  • Chiều cao cột hàng ba bằng kích thước gian chái (C) nhân √2: gh = √2gl = 1.944 mm × 1.414 = 2.748 mm (sai số 58 mm);
  • Chiều cao dạ Đòn Đông bằng ½ kích thước tổng nhịp gian (D): rs = 1/2ql = 1/2 × 12.638 mm = 6.319 mm (sai số -3 mm);
  • Chiều cao dạ Trến bằng kích thước tổng gian bên và gian chái (B+C): au = aq = 2.723 mm + 1.944 mm = 4.667 mm (sai số -6 mm);
  • Chiều cao dạ Xuyên bằng tổng 1/2 kích thước gian giữa (A) cộng với kích thước gian bên (B): bx = rw = ½ ab + av = (1/2 × 3.304 mm) + 2.723 mm = 4.375 mm (sai số 1 mm);
  • Chiều cao dạ xà dưới của cột hàng nhì (thể hiện chiều cao mái hạ) bằng kích thước gian chính (A): ad = ab = 3.304 mm (error – 30 mm).

Trong phân tích ở trên, sai số phân tích giữa các kích thước đo được và kết quả phân tích như sau: Chiều cao dạ Đồn Đông sai số -3 mm, chiều cao dạ Trến sai số -6 mm, chiều cao dạ Xuyên sai số 1 mm, chiều cao của cột hàng nhất sai số -24 mm, cột hàng nhì sai số -44 mm, cột hàng ba sai số 58 mm, và chiều cao dạ xà dưới của cột hàng nhì sai số -30 mm. Với biên độ sai số như vậy, có thể nói rằng các kích thước hiện trạng và các kích thước phân tích gần như tương đồng.

Dựa trên kết quả phân tích trên đây, tỉ lệ chiều cao hệ khung gỗ của Điện Long Đức được tóm tắt như sau:

  • Chiều cao cột hàng nhất = B × 2
  • Chiều cao cột hàng nhì = B × √2
  • Chiều cao cột hàng ba = C × √2
  • Chiều cao dạ Đòn Đông = 1/2 D
  • Chiều cao dạ Trến = B + C
  • Chiều cao dạ Xuyên = 1/2A + B
  • Chiều cao mái hạ = A

Như vậy, các kích thước chính của mặt cắt Điện Long Đức đã được xác định một cách tin cậy dựa trên các công thức hình học không gian đơn giản, trong đó √2 đóng vai trò là hệ số nhân cố định với các thông số kích thước của nhịp gian để suy ra chiều cao các cột và chiều cao của các cấu kiện gỗ chính. Kết quả này cho thấy các kích thước tổng thể của kết cấu gỗ có mối quan hệ tỷ lệ với kích thước mặt bằng công trình. Kết quả phân tích này cung cấp cơ sở quan trọng về khả năng tương đồng hình thức kết cấu và chiều cao của hệ khung gỗ giữa Điện Long Đức và Điện Chiêu Kính.

4. Phục hồi bản vẽ thiết kế kiến trúc Điện Chiêu Kính

4.1 Cơ sở lập luận

Các công trình kiến trúc di sản có kiểu dáng hình vuông (thể loại Phương Gia) có thể nhận diện được trong khu vực Hoàng Thành Huế là 7 công trình (Bảng 1). Trong số đó, chỉ có Điện Long Đức của khu vực Thái Miếu (Hình 9) và Thổ Công Từ của khu vực Thế Miếu (Hình 10) là còn nguyên vẹn và đã được trùng tu, các công trình khác thì phần trên đã bị mất, chỉ còn lại nền móng hoặc một phần phế tích nền móng.

Bảng 1: Danh mục những công trình thể loại Phương Gia trong Hoàng Thành Huế
Hình 9: Công trình Điện Long Đức (Thái Miếu)
Hình 10: Công trình Thổ Công Từ (Thế Miếu)

Với sự tương đồng của các công trình được liệt kê trong Bảng 1 trên đây, và dựa trên các cơ sở lập luận gồm: Đồng đại (cùng năm xây dựng) – Đồng dạng (cùng hình thức kiến trúc) – Đồng thức (cùng tỉ lệ kiến trúc) – Đồng đẳng (cùng là những công trình phối thuộc), có thể kết luận rằng Điện Chiêu Kính và Điện Long Đức là cặp công trình giống nhau, được bố trí trên trục phụ bên trái của khu vực Thái Miếu và đồng hướng với công trình Thái Tổ Miếu, đối xứng với nó qua trục trung tâm của khu vực Thái Miếu là Điện Mục Tư và Thổ Công Từ. Do đó, hình thức kiến trúc của Điện Long Đức và Điện Chiêu Kính về cơ bản là giống nhau, chỉ có một vài sự khác biệt về tổ chức không gian nội ngoại thất và các họa tiết trang trí.

Hình 11: Bản vẽ thiết kế phục hồi bặt bằng Nền và mặt bằng Mái

4.2 Phục hồi bản vẽ thiết kế nguyên bản của Điện Chiêu Kính

4.2.1 Phục hồi bản vẽ thiết kế mặt bằng Nền và mặt bằng Mái

Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu và phân tích nêu trên, các bản vẽ mặt bằng của Điện Chiêu Kính được thiết kế phục hồi như sau (Hình 11):

a) Mặt bằng nền hình vuông, mặt chính hướng Nam có 3 lối bậc cấp, gian giữa ở vị trí trung tâm được giới hạn bằng 4 cột hàng nhất (C3-4, D3-4); các gian bên đồng kích thước bao bọc xung quanh gian giữa, giới hạn bởi 12 cột hàng cột nhì (B2-5, E2-5, 2B-E, 5B-E), các gian chái đồng kích thước bao bọc xung quanh gian bên, được giới hạn bởi 20 cột hàng ba (A1-6, F1-6, 1A-F, 6A-F). Không gian từ trục A1-6 đến B1-6 là hiên phía trước được ngăn hờ bằng các khuôn cửa gọi là “khung thành vọng” để trang trí.

  • Kích thước gian giữa (A): 7,77 xích x 424cm = 3.294m
  • Kích thước gian bên (B): 3.294 m x 0,84 = 2.766m
  • Kích thước gian chái (C): 3.294 m x 0,60 = 1976m
  • Kích thước tổng gian (D): 12.639 m
  • Kích thước tổng nền (E): 12.639m x 1,1 = 13.902m

b) Mặt bằng mái hình vuông phân thành 2 tầng, mái thượng (trục 2-5, B-E) và mái hạ (trục 1-6, A-F), đều lược bằng ngói Âm-Dương tráng men vàng. Các góc mái và góc quyết đều có trang trí bằng motip “Giao Hóa”, ở giữa đỉnh nóc trang trí motip “Thái Dương”.

4.2.2 Phục hồi bản vẽ thiết kế mặt cắt ngang (1-1) và mặt cắt dọc (2-2)

Dựa trên các kích thước của phần kết cấu gỗ còn lại của Điện Long Đức, cùng với dấu vết đường kính cột trên các chân đá tán hiện còn, các kích thước mặt cắt của Điện Chiêu Kính được phục hồi như sau (Hình 12):

  • Chiều cao cột hàng nhất = B × 2 = 2.772mm × 2 = 5.544mm;
  • Đường kính cột hàng nhất = 0,66 thước ta = 280mm;
  • Chiều cao cột hàng nhì = B × √2 = 2.772 mm × 1,414 = 3.919mm;
  • Đường kính cột hàng nhì = 0,65 thước ta = 270mm;
  • Chiều cao cột hàng ba = C × √2 = 1.975 mm × 1,414 = 2.792mm;
  • Đường kính cột hàng ba = 0,56 thước ta = 240mm;
  • Chiều cao dạ Đòn Đông = ½ D = 12.635 mm × ½ = 6.318mm;
  • Chiều cao dạ Trến = B + C = 2.772 mm + 1.975mm = 4.747 mm;
  • Chiều cao dạ Xuyên = ½A + B = 4.421mm;
  • Chiều cao mái hạ = A = 3.298mm.

Độ dốc của mái thượng tương ứng với tỷ lệ chiều cao giữa cột hàng nhất và cột hàng nhì, được xác định là 58%; độ dốc của mái hạ theo tỷ lệ chiều cao dạ xà dưới mái hạ và cột hàng ba, được xác định là 41%. Ngoài ra, theo tập quán xây dựng truyền thống Việt Nam, các cột góc của hàng cột nhì (B2, B5, E2, E5) và các cột góc của hàng ba ở cột ngoài cùng (A1, A6, F1, F6) đều được nâng cao hơn từ 80–120 mm để tạo độ uốn lượn cho bề mặt mái.

4.2.3 Phục hồi bản vẽ thiết kế mặt đứng chính và mặt đứng bên

Căn cứ vào hình thức mặt đứng của Điện Long Đức và hình thức tổ chức không gian mặt bằng nền công trình, các mặt đứng của Điện Chiêu Kính được thiết kế phục hồi như Hình 13 dưới đây. Theo đó, hướng sống mái (nóc nhà) là hướng Đông-Tây (trục 3-4), và hướng đầu hồi (khu đĩ) là hướng Bắc-Nam (trục C-D), có trang trí motip “Phúc Đáo Nhãn Tiền” (dơi ngậm kim tiền). Giữa hai tầng mái có một khoảng tường ngắn gọi là “Cổ Diêm”, trên đó có các motip trang trí theo lối “Nhất Thi Nhất Họa” (1 ô vẽ tranh, 1 ô chữ hán).

Hình 12: Bản vẽ thiết kế phục hồi mặt cắt Ngang và mặt cắt Dọc
Hình 13: Bản vẽ thiết kế phục hồi mặt đứng Chính và mặt đứng Bên

Những bản vẽ thiết kế kiến trúc trên đây sẽ là cơ sở để triển khai các bản vẽ thiết kế kỹ thuật thi công. Các vấn đề về vật liệu, kỹ thuật thi công liên quan đến công tác tái thiết ngôi điện này sẽ được lần lượt đề cập trong các bài nghiên cứu tiếp theo.

5. Kết luận

Với hướng tiếp cận nghiên cứu đa ngành gồm lịch sử, kiến trúc và khảo cổ học; vận dụng phương pháp phân tích đối sánh các công trình kiến trúc đồng đại và đồng dạng trong khu vực Thái Miếu, nghiên cứu này đã khẳng định được sự tương đồng của các đối tượng nghiên cứu là đồng đại (cùng thời kỳ xây dựng), đồng dạng (cùng hình thức kiến trúc đồng thức (cùng tỉ lệ kiến trúc) và đồng đẳng (cùng đẳng cấp và chức năng sử dụng). Dựa trên những cơ sở này, bài nghiên cứu đã khẳng định công trình Điện Chiêu Kính giống với công trình Điện Long Đức hiện còn ngay trong khu vực Thái Miếu, trong khi hệ khung gỗ và phần mái của công trình này đã bị mất, chỉ còn lại phế tích nền móng.

Đối với các công trình kiến trúc di sản bằng gỗ, cụ thể là kiến trúc cung điện Huế, cho dù phần trên của công trình có thể bị sụp đổ, bị mất mát, nhưng nếu nền móng công trình được bảo tồn tốt sẽ là yếu tố cấu thành gốc của di sản, rất quan trọng và hữu ích cho công tác nghiên cứu bảo tồn tái thiết di sản, mà trước tiên là công việc nghiên cứu phục hồi bộ bản vẽ thiết kế kiến trúc của nó.

Trường hợp Dự án tái thiết Điện Chiêu Kính được thực hiện thành công là một ví dụ tiêu biểu cho khả năng này. Tuy toàn bộ phần trên của công trình đã bị mất, không thể tìm thấy bất cứ bức ảnh tư liệu nào về công trình, cũng không còn tồn tại bất cứ một chứng cứ vật chất nào liên quan đến hệ khung gỗ của công trình (chỉ còn một số mảnh ngói sót lại), nhưng qua việc áp dụng phương pháp luận nghiên cứu đa ngành trên đây đã có thể phục hồi được bộ bản vẽ thiết kế kiến trúc nguyên bản cho dự án tái thiết công trình di sản kiến trúc này. Và theo các tiêu chí được đề cập trong Công ước Nara, bản vẽ thiết kế được tin tưởng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên giá trị chân xác trong công tác tái thiết di sản kiến trúc.

TS.KTS. Lê Vĩnh An
TS. Nguyễn Trọng Sơn Hà
TS. Phan Trường Sơn
TS. Nguyễn Ngọc Phúc
Giảng viên Khoa Kỹ thuật Xây dựng, ĐH Công nghiệp TP HCM, Việt Nam
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 08-2025)


Chú thích:
[1] Vinh An Le, Thi Kim Nhung Nguyen: “Discussion of So-Called ‘Architectural Heritage DNA’ via a Case Study of the Conservation of the Nara Palace Site, Japan”, Buildings 2024, 14 (1), 132, https://doi.org/10.3390/buildings14010132;
[2] Nara, Japan: “1994 Nara Document on Authenticity”, during the Nara Workshop on Authenticity (the framework of the International Heritage Convention) held in Nara City, Japan in November 1994, UNESCO’s World Heritage Committee, CCROM organization, and ICOMOS officially approved the Nara Document on Authenticity. 1994;
[3] Lê Vĩnh An: Luận án Tiến sĩ “Reconstruction study on the Plan and Section of the ‘Can Chanh Dien’ main palace of the Nguyen dynasty”, Viện ĐH Waseda, Tokyo, Nhật Bản 2009.
[4] Nội Các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập XIII, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tr.99.
[5] Nội Các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập XIII, sđd, 1993, tr.98.
[6] Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thục lục, tập IV, bản dịch của Viện Sử học, NXB Sử học, HN, 1963, tr.193
[7] Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập III (tr.), tập IV (tr.193,194, 370), Bản dịch của Viện Sử học, NXB Sử học, HN, 1963, 1964.
[8] Nội Các triều Nguyễn, Khâm đinh Đại Nam hội điển sự lệ, tập XIII, sđd, tr.99
[9] Nội Các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Tập XIII, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tr.71.
[10] Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thục lục, tập III, Bản dịch của Viện Sử học, NXB Sử học, 1963, tr.212
[11] Nội Các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, Công Bộ, quyển 207, tr. 99.



Nguồn