Trong hơn một thập kỷ, sinh viên Trung Quốc đã đổ xô đến Mỹ. Họ bị thu hút bởi uy tín của nền giáo dục nước ngoài và sự quyến rũ của Giấc mơ Mỹ. Các công ty tư vấn giáo dục phát triển mạnh mẽ trên khắp Trung Quốc còn các bậc phụ huynh chi trả số tiền lớn cho gia sư và các lớp học hứa hẹn sẽ đưa con em họ đi du học.
Nhưng hiện nay, điều đó đang thay đổi – và số liệu thống kê gần đây cho thấy sức hấp dẫn đang giảm dần.
Trong năm học vừa qua, sinh viên từ Ấn Độ đã trở thành nhóm sinh viên quốc tế lớn nhất trong nền giáo dục đại học Mỹ – đánh bật Trung Quốc khỏi vị trí dẫn đầu lần đầu tiên kể từ năm 2009, theo số liệu do Bộ Ngoại giao Mỹ và Viện Giáo dục Quốc tế công bố.
Theo báo cáo, Trung Quốc vẫn là một trong những nguồn sinh viên quốc tế chính, chiếm khoảng 25% tổng số sinh viên quốc tế, so với 29% của Ấn Độ.
Nhưng các chuyên gia cho biết sự suy giảm số sinh viên quốc tế phản ánh những thay đổi đáng kể trong cả chính sách và nhận thức của công chúng. Nhiều sinh viên và gia đình Trung Quốc lo lắng về sự an toàn, phân biệt chủng tộc và kỳ thị, cũng như khó khăn về nhập cư – đặc biệt là khi có nhiều lựa chọn hơn ở các quốc gia khác, bao gồm cả Trung Quốc.
Năm ngoái, Ấn Độ đã vượt qua Trung Quốc để trở thành quốc gia đông dân nhất thế giới và hơn 40% người Ấn Độ dưới 25 tuổi đang làm dấy lên hy vọng về một động lực mới, trẻ trung hơn cho nền kinh tế toàn cầu khi dân số Trung Quốc bắt đầu suy giảm và già đi. Theo Bộ Ngoại giao Mỹ, có hơn 331.600 sinh viên Ấn Độ tại Mỹ vào năm học trước.
“Chúng tôi thấy từ cả hai phía, sinh viên Trung Quốc học tập tại Mỹ và sinh viên Mỹ học tập tại Trung Quốc, số lượng đang giảm xuống”, Mallie Prytherch, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Trung Quốc đương đại và thế giới của Đại học Hồng Kông, cho biết.
Trung Quốc đang thay đổi
Thế giới đã khác xa so với thời điểm cuối những năm 2000 và đầu những năm 2010, khi sinh viên Trung Quốc bắt đầu đổ xô ra nước ngoài.
Vào thời điểm đó, Trung Quốc đang nhanh chóng chuyển mình từ một quốc gia nghèo đói thành một siêu cường kinh tế, nhờ vào sáng kiến “mở cửa” bắt đầu vào cuối những năm 1970 và chứng kiến những cải cách toàn diện.
Sáng kiến này cũng đã thay đổi mối quan hệ của Trung Quốc với thế giới. Sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001 và tổ chức Thế vận hội Olympic vô cùng thành công vào năm 2008, “đã có sự khởi sắc trong quan hệ Mỹ và Trung Quốc, mọi người đều có cái nhìn thực sự lạc quan về tương lai của Trung Quốc”, Prytherch cho biết. “Vì vậy, Mỹ rất cởi mở trong việc tiếp nhận sinh viên Trung Quốc vào nước Mỹ”.
Nhiều gia đình Trung Quốc cũng trở nên giàu có khi nền kinh tế phát triển mạnh mẽ.
Các số liệu của Bộ Ngoại giao Mỹ phản ánh xu hướng này – số lượng sinh viên đại học Trung Quốc tại Mỹ tăng từ khoảng 98.200 vào năm 2009 lên mức cao kỷ lục là 369.500 vào năm 2019. Điều đó cũng có nghĩa là Trung Quốc đã trở thành một thị trường ngày càng béo bở cho các trường đại học Mỹ, nơi đẩy mạnh các nỗ lực thu hút sinh viên từ quốc gia này.
Nhưng thái độ bắt đầu thay đổi vào năm 2016 khi ông Trump lần đầu tranh cử, chuyên gia Prytherch cho biết. Quan hệ Mỹ – Trung Quốc đã suy thoái trong những năm tiếp theo, khi hai nước tham gia vào một cuộc chiến thương mại và chỉ trích lẫn nhau trong đại dịch.
Vòng xoáy đi xuống của mối quan hệ cũng được phản ánh trong chính sách: ông Trump áp dụng một lệnh hành pháp hủy bỏ chương trình trao đổi Fulbright của Mỹ với Trung Quốc. Sau đó, chính quyền ông Trump còn đưa ra lệnh cấm để ngăn cản sinh viên Trung Quốc học một số ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM) từ một số trường đại học tại Mỹ.
Năm 2020, Mỹ đã thu hồi thị thực của hơn 1.000 sinh viên và nhà nghiên cứu Trung Quốc bị liệt vào danh sách có thể gây rủi ro an ninh. Khi Tổng thống Joe Biden nhậm chức, nhiều chính sách thời ông Trump vẫn được duy trì – khiến sinh viên sau đại học và các nhà nghiên cứu Trung Quốc khó có thể xin được thị thực.
Vào tháng 1 năm nay, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Uông Văn Bân cho biết trong một cuộc họp báo rằng “hàng chục công dân Trung Quốc, bao gồm cả sinh viên quốc tế, đã bị Mỹ trục xuất mỗi tháng”. Ông lên án hành động này là “phân biệt đối xử”, đồng thời kêu gọi Mỹ bảo vệ quyền của sinh viên Trung Quốc ở nước ngoài.
Li Jing, trợ lý nghiên cứu tại Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh với bằng thạc sĩ về an ninh mạng, nói với CNN hồi tháng 6 rằng ông đã cố gắng tham dự một hội nghị học thuật tại Mỹ nhưng đã bị từ chối cấp thị thực ba lần. Ông mất gần 690 USD trong quá trình xin thị thực.
“Tôi không biết liệu lý lịch học vấn của mình có phải là nguyên nhân khiến thị thực bị từ chối hay không”, ông nói.
Những năm Covid
Số lượng sinh viên Trung Quốc tại Mỹ đã giảm mạnh trong đại dịch và vẫn chưa phục hồi kể từ đó.
“Tổng số sinh viên từ Trung Quốc đã giảm trong ba năm qua, chủ yếu là ở bậc đại học”, Mirka Martel, người đứng đầu nghiên cứu tại Viện Giáo dục Quốc tế, cho biết tại một cuộc họp báo công bố số liệu mới nhất.
Một công ty tư vấn giáo dục, Education First, cho biết đã có sự sụt giảm 10% về số lượng sinh viên từ Hồng Kông và Ma Cao muốn theo học đại học tại Mỹ, theo tổng giám đốc Steven Hon.
Số liệu của Bộ Ngoại giao Mỹ không gây ngạc nhiên cho cư dân mạng trên các nền tảng truyền thông xã hội của Trung Quốc. “Kể từ khi các lệnh trừng phạt kinh tế và hạn chế công nghệ bắt đầu vào năm 2018, nhiều sinh viên (Trung Quốc) đã bị gửi về nước”, một người dùng đã viết trên Weibo. Một người dùng khác viết: “Lý do duy nhất khiến tôi không muốn con mình học ở Mỹ là vì vấn đề an toàn — các vấn đề như bạo lực, cướp, bạo lực súng đạn và ma túy”.
Mối lo ngại về an toàn càng gia tăng kể từ khi đại dịch mang đến làn sóng phân biệt chủng tộc chống người châu Á. Trong khi bạo lực súng đạn luôn gây lo ngại cho các gia đình ở nước ngoài, thì việc sử dụng mạng xã hội ngày càng tăng trong thời kỳ đại dịch cũng có nghĩa là các cuộc tấn công lan truyền rộng rãi hơn trên mạng, tiếp cận nhiều người hơn ở Trung Quốc – Prytherch cho biết.
Bà nói thêm rằng cách chính phủ Mỹ xử lý đại dịch cũng khiến sinh viên ở Trung Quốc bàng hoàng. Mặc dù nhiều người cũng không hài lòng với chính sách không Covid nghiêm ngặt của Bắc Kinh, nhưng họ vẫn phần lớn thích điều đó hơn là cảm giác Covid đang hoành hành ở Mỹ.
Trong quá trình nghiên cứu của mình tại Bắc Kinh, một sinh viên nói với Prytherch: “Ở Mỹ, họ nói rằng tôi được tự do, nhưng nếu tôi không thể đi bộ an toàn trên phố, thì làm sao có thể gọi là tự do?”.
Tuy nhiên, ông Hon cho biết, sự suy giảm không nhất thiết có nghĩa là nhu cầu du học ở nước ngoài giảm đi – chỉ là hiện tại có nhiều lựa chọn hơn ngoài Mỹ.
“Lý do khiến chúng ta thấy sự sụt giảm nhẹ ở Mỹ là vì có nhiều chính sách thân thiện hơn với người nhập cư ở các quốc gia khác, như Canada, Vương quốc Anh và Úc”, ông nói. “Các bậc phụ huynh có nhiều lựa chọn hơn để lựa chọn về nơi họ muốn đến và những trường đại học nào sẵn sàng chấp nhận con cái của họ”.
Một trong những lựa chọn khác chỉ đơn giản là ở lại Trung Quốc, nơi các trường đại học đang ngày càng có uy tín hơn. Nhiều giáo sư Trung Quốc trước đây làm việc tại Mỹ hiện đang quay trở lại giảng dạy tại Trung Quốc, một phần vì những điều kiện khó khăn mà họ phải đối mặt ở Mỹ, nhưng cũng vì chất lượng giáo dục của Trung Quốc được cải thiện.
Trong bối cảnh đó, nhiều sinh viên không còn nghĩ rằng nền giáo dục của Mỹ luôn luôn mang lại cho họ lợi thế cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc trừ khi họ theo học tại một trường Ivy League hoặc một trường đại học hàng đầu tương tự. Trên thực tế, khi nhiều sinh viên Trung Quốc để mắt đến sự ổn định và lợi ích của các công việc trong chính phủ, một số thậm chí còn tự hỏi liệu việc học ở nước ngoài có thể làm hỏng cơ hội theo đuổi sự nghiệp của họ hay không.
Mặc dù các quy định về nhập cư đã được thắt chặt dưới hai chính quyền gần đây nhất, một số quan chức Mỹ vẫn đang cố gắng khuyến khích sinh viên quốc tế mới.
“Tôi muốn xác nhận rằng chúng tôi rất hoan nghênh sinh viên từ Trung Quốc đến Mỹ. Chúng tôi có số lượng sinh viên Trung Quốc theo học bên ngoài Trung Quốc lớn nhất tại đây. Chúng tôi biết rằng các trường đại học Mỹ vẫn tiếp tục coi trọng sinh viên Trung Quốc”, đại diện Marianne Craven của Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết trong một cuộc họp báo tuần này.
Liệu sinh viên Trung Quốc có tin vào điều đó hay không lại là một câu hỏi khác.
“Nhiều sinh viên Trung Quốc muốn có gia đình trong tương lai và họ bắt đầu nghĩ rằng Trung Quốc là nơi tốt nhất để làm điều đó”, Prytherch cho biết. “Họ nghĩ rằng, bạn biết đấy, Trung Quốc không còn quá tệ nữa. Ít nhất thì nơi này cũng an toàn”.
Tham khảo CNN